• Skip to content
  • Trang Chủ
  • Văn Chương
  • Âm Nhạc
  • Hội Họa
  • Phim Ảnh
  • Thơ Ca
  • Loại hình nghệ thuật khác
  • Chính Sách Bảo Mật

vanhocquenha

Thơ Ca

Th1 26 2022

Danh sách những bài thơ về gia đình hay và ý nghĩa

Một cách gọi thân thương, “gia đình” chính là cái nôi đã nuôi dưỡng chúng ta nên người, với những người mẹ, người cha và những người yêu thương chúng ta vô điều kiện. Khi bạn mệt mỏi, chỉ có gia đình là điểm tựa, nỗi đau sẽ nguôi ngoai và trái tim luôn chung một nhịp đập. vanhocquenha.vn muốn gửi đến các bạn những Bài thơ về gia đình hay và ý nghĩa nhất.

I. Kiếp nhà nghèo – Bài thơ về gia đình

Kiếp nhà nghèo

Tôi sinh ra trong gia đình nghèo khó

Rồi lớn lên với cuộc sống cơ hàn

Nên tôi quý những thứ tôi đang có

Biết làm gì lúc sóng gió gian nan?

Cha mẹ tôi là nông dân lam lũ

Tấm lưng gầy chẳng kịp ráo mồ hôi

Nhưng tôi không cúi đầu hay tủi hổ

Bởi riêng tôi, họ đẹp nhất trên đời

Bạn chưa từng ăn khoai lang trừ bữa

Cũng chưa từng uống nước lã cầm hơi

Thì sao bạn biết quý từng hạt lúa

Mẹ cùng cha gom nhặt cả một thời

Nếu còn sống bằng đồng tiền của mẹ

Vẫn ngửa tay xin cha lúc đi chơi

Thì bạn ạ! Đừng vô tình cười nhạo

Khi ai gặp khó ở trong đời.

2. Hạnh phúc đơn sơ

Hạnh phúc đơn sơ

Nhà người xe máy, xe ga

Chỉ cần dẫm số gần xa biết liền

Bởi vì họ có lắm tiền

Gia đình khá giả hiển nhiên bình thường.

Nhà mình dãi nắng dầm sương

Có con xe đạp khắp đường đi theo

Dẫu rằng vật chất tuy nghèo

Đi đâu mình cũng cùng đèo bên nhau

Hai con phía trước, vợ sau

Còn tôi ngồi giữa đạp đau cả đùi

Thế nhưng chồng vợ vẫn vui

Cám ơn xe đạp tiến lùi cạnh bên.

Sau này cuộc sống đi lên

Nghĩ về quá khứ nào quên xe này

Chỉ cần sánh bước chung tay

Nghèo nhưng mình vẫn tràn đầy tình thương.

3. Không gia đình

Không gia đình

Không gia đình buồn lắm ai ơi

Cả đời vất vưởng cứ chơi vơi

Lúc đau lúc ốm nào ai ngó

Đau đáu lo âu chẳng thảnh thơi

Không gia đình nghĩ tủi lắm à

Người ta có chốn để về nhà

Vui buồn người thân còn chia sẻ

Rôm rả chuyện gần tới chuyện xa

Không gia đình bất hạnh lắm thay

Cô đơn thui thủi chẳng ai hay

Nếp nhà sao cứ im như thóc

Chẳng có tiếng cười , tiếng vỗ tay

Thế mà ngày nay nghĩ cũng kỳ

Nhà nhà khi đã có ti vi

Nghĩa tình làng xóm coi như mất

Xóm trên làng dưới chẳng ai đi

Điện thoại Thông minh lại ra đời

Mỗi người một góc để ngồi chơi

Chẳng ai nói chuyện , chẳng đi lại

Mủm mỉm một mình chẳng chịu ngơi

Người lớn không chơi với trẻ con

Để cho em bé sống mỏi mòn

Tự kỷ sinh ra là cái chắc

Cuộc đời là cả sự héo hon

Thôi thôi ta hãy tỉnh lại thôi

Gia đình quan trọng nhất trên đời

Cái nôi nuôi dưỡng tạo nhân cách

Lấy lại tình thân đã xa dời

4. Thơ về gia đình

Thơ về gia đình

Chỉ cần một nơi về mãi nhớ,

Bước chân vào…cửa mở đón chào…!

GIA ĐÌNH luôn chứa ngọt ngào,

Mâm cơm nghi ngút …chứa bao ân tình!

Ta chỉ có GIA ĐÌNH mỗi một,

Nơi sẳn sàng chứa cốt nhục mình.

Luôn là bệ phóng quang vinh,

Giúp ta xây dựng bước trình tương lai…!

Khi ta gặp bước dài gian khó…!

Về GIA ĐÌNH sẽ có niềm vui!

Yêu thương sẽ giúp đẩy lùi…

Bao nhiêu đỗ vở dập vùi giảm đau !

Khi tim nhỏ rối nhàu tình khổ,

Hãy nhớ về bến đổ GIA ĐÌNH.

Hãy ghi nhớ mẹ cha sinh…

Hãy trân quý công trình dưỡng nhi !

Ta thấy đó…xuân thì thay đổi,

Bốn mùa qua tiếp nối phút giây.

Đông Tây Nam Bắc đổi thay,

GIA ĐÌNH vẫn cứ đêm ngày đợi con .

5. Vượt lên số phận – Bài thơ về gia đình

Con người sống trên chốn hồng trần

Số kiếp ông trời đã định phân

Vui, buồn, bất hạnh hay may mắn

Người quá giàu sang,kẻ thiếu phần

Người khổ biết vượt qua số phận

Ăn ở hiền lành,khỏe tấm thân

Nếu muốn bản thân không lận đận

Cố gắng đừng gieo chuyện nợ nần

Khi quá túng cùng,đừng nghĩ quẫn

Rồi vướng vào những chuyện bất nhân

Lao động cần cù ta kiên nhẫn

Một ngày sẽ thoát được khó khăn

Còn khi giàu phải có lòng nhân

Giúp kẻ sa cơ,kẻ cơ bần

Răng mình,luôn có lòng trắc ẩn

Giúp người là tự giúp bản thân

Cao xanh đã định rất công bằng

Làm người phải phân biệt giả chân

Con người đạo đức luôn chiến thắng

Thoát khỏi u mê,hết nhọc nhằn

6. Suy ngẫm

Nếu cuộc đời để vào nơi cõi tạm

Thấy nắng trời thiêu sạm cháy làn da

Nếu quăng đời trong cơn bão phong ba

Ta thấy đời già đi thêm chút nữa

Nếu nhốt mình từng đêm sau ô cửa

Hẳn chắc rằng thiếu mất nửa tự do

Nếu gieo mình bước xuống những con đò

Sẽ thấy đời bồng bềnh theo con nước

Nếu quyết tâm cuộc đời sẽ có được

Những ước mơ và hạnh phúc ngọt ngào

Nếu khó khăn hãy giữ chớ chênh chao

Để vững bước tự hào ta đi tới

Nếu có danh cũng đừng nên ham lợi

Giữ cho đời phẩm giá khỏi uổng công

Nếu tài ba khiêm tốn nhớ đừng ngông

Cho xứng đáng với con rồng cháu giống …

7. Một bóng đi về

Có những đêm gói chặt cô đơn vào lòng

Nhìn chiếu chăn lạnh lẽo mà hờn tủi

Ước mái gia đình hạnh phúc bớt lủi thủi

Nhưng nay quá tuổi lập thất thành gia

Nỗi buồn cô quạnh bơ vơ lúc về già

Mới thấy thời gian vu vút biết mấy

Lỡ mai ốm đau ai người săn sóc

Trời trở gió mệt mỏi cam chịu qua dần

Sông nào cũng chảy về biển hòa tan

Kiếp người tựa án phù phân nhân thế

Như loài hoa sớm nở rồi tàn phai hết

Khi bóng chiều tà dần xuống tia nắng nhạt nhòa

Ngẫm nghĩ thay phận mình lắm xót xa

Đời không gia đình yên ấm che chở

Viết hoài mấy vần thơ đầy than thở

Thuyền heo hút mất giữa dòng khơi

8. Con vẫn còn bé

Với bố mẹ con luôn là đứa trẻ

Vẫn thơ ngây, bé bỏng chẳng biết gì

Vẫn cần bảo ban cần yêu thương bảo bọc

Dù tuổi con chẳng bé bỏng nữa rồi…

Và khi con nghĩ rằng con khôn lớn

Con ương ương mình đúng chẳng nghe lời

Làm bố mẹ buồn con nào đâu hay biết

Chỉ mình con – con vui sướng… riêng con…

Rồi con lớn thêm con biết nhiều hơn trước

Con nghĩ nhiều hiểu suy nghĩ mẹ cha:

Tất cả vì con, cho con, con tất cả

Hạnh phúc cuộc đời là hạnh phúc con yêu…

Và thời gian cứ chầm chậm bước đi

Cha mẹ già hơn để cho con chững chạc

Nhưng khi khó khăn con trở về bên cha mẹ

Ước một điều: Con vẫn mãi bé con…

Nguồn: dean2020.edu.vn

Trên đây là bài thơ về gia đình biên tập và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng qua bài viết này bạn sẽ chia sẻ được tình cảm của mình với những người thân yêu khác trong gia đình nhỏ của mình thông qua thơ ca.

Written by tranquanghai · Categorized: Thơ Ca

Th1 26 2022

Danh sách tổng hợp những bài thơ của Trần Đăng Khoa

Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại Tỉnh Hải Đông, nước Việt Nam. Anh sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội. Anh sinh ra dưới cung Kim Ngưu và thuộc chòm sao Con chó (Mậu Tuất 1958). Trần Đăng Khoa được xếp hạng nổi tiếng thứ 226 trong danh sách 48.143 nhà thơ nổi tiếng trên thế giới. Cùng điểm qua những bài thơ hay nhất của Trần Đăng Khoa qua bài viết dưới đây của vanhocquenha.vn nhé!

1. Bài thơ Hạt gạo làng ta – Những bài thơ của Trần Đăng Khoa

Bài thơ Hạt gạo làng ta

Hạt gạo làng ta

Kính tặng chú Xuân Diệu

Thơ Trần Đăng Khoa

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay…

Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy…

Hạt gạo làng ta

Những năm bom Mỹ

Trút trên mái nhà

Những năm cây súng

Theo người đi xa

Những năm băng đạn

Vàng như lúa đồng

Bát cơm mùa gặt

Thơm hào giao thông…

Hạt gạo làng ta

Có công các bạn

Sớm nào chống hạn

Vục mẻ miệng gàu

Trưa nào bắt sâu

Lúa cao rát mặt

Chiều nào gánh phân

Quang trành quết đất

Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về phương xa

Em vui em hát

Hạt vàng làng ta…

Nguồn:

  1. Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hoá dân tộc, 1999
  2. SGK Văn 5 (tập 2), NXB Giáo dục, 1989

2. Bài thơ mẹ ốm

Bài thơ mẹ ốm

Mọi hôm mẹ thích vui chơi

Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu

Lá trầu khô giữa cơi trầu

Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay

Cánh màn khép lỏng cả ngày

Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa

Nắng mưa từ những ngày xưa

Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan

Khắp người đau buốt, nóng ran

Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm

Người cho trứng, người cho cam

Và anh bác sĩ đã mang thuốc vào

Sáng nay trời đổ mưa rào

Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương

Cả đời đi gió đi sương

Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi

Mẹ vui, con có quản gì

Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca

Rồi con diễn kịch giữa nhà

Một mình con sắm cả ba vai chèo

Vì con mẹ khổ đủ điều

Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn

Con mong mẹ khoẻ dần dần

Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say

Rồi ra đọc sách, cấy cày

Mẹ là đất nước, tháng ngày của con…

Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, Nxb Văn hoá dân tộc, 1999

3. Bài thơ cây dừa

Bài thơ cây dừa

Cây dừa xanh toả nhiều tàu

Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng

Thân dừa bạc phếch tháng năm

Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao

Đêm hè hoa nở cùng sao

Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh

Ai mang nước ngọt, nước lành

Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa

Tiếng dừa làm dịu nắng trưa

Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo

Trời trong đầy tiếng rì rào

Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra…

Đứng canh trời đất bao la

Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi

7: Buổi sáng nhà em

Ông trời nổi lửa đằng đông

Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

Bố em xách điếu đi cày

Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau

Cậu mèo đã dậy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ gà cục tác như điên

Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi

Cái na đã tỉnh giấc rồi

Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao!

Chị tre chải tóc bên ao

Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương

Bác nồi đồng hát bùng boong

Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà

4. Bài thơ buổi sáng nhà em

Bài thơ buổi sáng nhà em

Ông trời nổi lửa đằng đông

Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

Bố em xách điếu đi cày

Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau

Cậu mèo đã dậy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ gà cục tác như điên

Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi

Cái na đã tỉnh giấc rồi

Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao!

Chị tre chải tóc bên ao

Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương

Bác nồi đồng hát bùng boong

Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà

Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999

5. Sao không về Vàng ơi – Những bài thơ của Trần Đăng Khoa

Tao đi học về nhà

Là mày chạy xồ ra

Đầu tiên mày rối rít

Cái đuôi mừng ngoáy tít

Rồi mày lắc cái đầu

Khịt khịt mũi, rung râu

Rồi mày nhún chân sau

Chân trước chồm, mày bắt

Bắt tay tao rất chặt

Thế là mày tất bật

Đưa vội tao vào nhà

Dù tao đi đâu xa

Cũng nhớ mày lắm đấy

Hôm nay tao bỗng thấy

Cái cổng rộng thế này!

Vì không thấy bóng mày

Nằm chờ tao trước cửa

Không nghe tiếng mày sủa

Như những buổi trưa nào

Không thấy mày đón tao

Cái đuôi vàng ngoáy tít

Cái mũi đen khịt khịt

Mày không bắt tay tao

Tay tao buồn làm sao!

Sao không về hả chó?

Nghe bom thằng Mỹ nổ

Mày bỏ chạy đi đâu?

Tao chờ mày đã lâu

Cơm phần mày để cửa

Sao không về hả chó?

Tao nhớ mày lắm đó

Vàng ơi là Vàng ơi!

Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, Nxb Văn hoá dân tộc, 1999

6. Kể cho bé nghe

Hay nói ầm ĩ

Là con vịt bầu

Hay hỏi đâu đâu

Là con chó vện

Hay chăng dây điện

Là con nhện con

Ăn no quay tròn

Là cối xay lúa

Mồm thở ra gió

Là cái quạt hòm

Không thèm cỏ non

Là con trâu sắt

Rồng phun nước bạc

Là chiếc máy bơm

Dùng miệng nấu cơm

Là cua, là cáy

Chẳng vui cũng nhảy

Là chú cào cào

Đêm ngồi đếm sao

Là ông cóc tía

Ríu ran cành khế

Là cậu chích choè

Hay múa xập xoè

Là cô chim trĩ…

7. Bài ca người lính thời bình

Đất nước không bóng giặc

Tưởng về gần lại xa

Vẫn gian nan làm bạn

Vẫn gió sương làm nhà

Bãi hoang thành đô thị

Ai đi áo dài bay

Còn ta thì trần trụi

Lấm lem hơn thợ cày

Trước giặc là lính cựu

Sau trâu là tân binh

Cái nghèo và cái dốt

Bày trận giữa thời bình

Em vẫn thầm lộng lẫy

Chờ ta như thuở nào

Lặn lội tìm biết có

Gặp ta trong chiêm bao

Giờ những kẻ thù xưa

Trông mặt đều quen cả

Có gì đâu máu người

Chẳng phải là nước lã

Các cậu đến làm bạn

Thôi thì xả láng chơi

Còn nếu sang làm giặc

Chúng tớ cho chầu giời!

Pháo nằm như mơ ngủ

Núi bay dải mây tình

Các cậu đừng có tưởng

Chúng tớ – lính thời bình…

8. Bài thơ cánh diều

Cánh diều no gió

Sáo nó thổi vang

Sao trời trôi qua

Diều thành trăng vàng

Cánh diều no gió

Tiếng nó trong ngần

Diều hay chiếc thuyền

Trôi trên sông Ngân

Cánh diều no gió

Tiếng nó chơi vơi

Diều là hạt cau

Phơi trên nong trời

Trời như cánh đồng

Xong mùa gặt hái

Diều em – lưỡi liềm

Ai quên bỏ lại

Cánh diều no gió

Nhạc trời réo vang

Tiếng diều xanh lúa

Uốn cong tre làng

Ơi chú hành quân

Cô lái máy cày

Có nghe phơi phới

Tiếng diều lượn bay?

Tiếng diều vàng nắng

Trời xanh cao hơn

Dây diều em cắm

Bên bờ hố bom…

Trên đây là những bài thơ của Trần Đăng Khoa. Những bài thơ ca của Trần Đăng Khoa luôn để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Written by tranquanghai · Categorized: Thơ Ca

Th11 30 2018

Tìm hiểu phong trào thơ mới trong văn học Việt Nam

Phong trào thơ mới là một hiện tượng rất nổi bật trong thơ ca nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung ở thế kỷ 20. Khi phong trào thơ mới vừa xuất hiện đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trong văn học của dân tộc với những tác giả nổi tiếng như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Huy Cận, Thế Lữ…

Phong trào thơ mới

Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây ra không ít sự tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và độc giả của từng thời kỳ phát triển trong lịch sử xã hội nước ta. Hiện nay, việc đánh giá thơ mới vẫn còn diễn ra rất sôi nổi.

Trong bài viết này, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem phong trào thơ mới là gì qua những đánh giá và nhận xét của các bậc thầy đi trước. Chúng tôi tin rằng qua những thông tin được cung cấp trong bài viết này các bạn sẽ tìm được cho mình một câu trả lời phù hợp nhất cho những thắc mắc của mình.

Quan niệm về thơ mới khi so sánh với thơ cũ

Phong trào thơ mới là gì? Chính cha đẻ đề xướng ra phong trào thơ mới – nhà thơ Phan Khôi cũng chưa biết nên gọi là gì mà chỉ giới thiệu đôi nét về nó thông qua Phụ nữ Tân văn số 122, 1932. Nhà thơ Phan Khôi đã chia sẻ như sau: “..Tôi sắp toan bày ra một lối Thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, nhưng có hiểu đại khái ý nghĩa của lối Thơ mới này ra, là: đem ý có thật trong tâm khảm mình thể hiện ra bằng những câu, có vần mà không phải bó buộc bởi niêm hay luật gì hết”.

Một năm sau, cũng trên Phụ nữ Tân văn (số 211), đã chia sẻ ý kiến của nhà diễn thuyết Nguyễn Thị Khiêm  – một trong những người đầu tiên ủng hộ phong trào thơ mới. Bà cho rằng: “Muốn cho sự tình tứ không vì khuôn khổ mà mất đi thì chúng ta cần có một lối thơ khác có lề lối và nguyên tắc rộng hơn. Thể thơ này rất khác với thơ ca xưa nên gọi là Thơ mới”.

Theo ý kiến 2 nhà thơ trên thì thơ mới chính là một thể loại thơ tự do. Khoảng 10 năm sau, khi thơ mới đã bắt đầu ổn định và có vị trí trong nền văn học Việt Nam thì chính lúc đó nhà thơ Hoài Thanh, Hoài Chân đã đưa ra nhận định của bản thân tổng kết lại về phong trào: “Chúng ta không thể hiểu theo cách định nghĩa của ông Phan Khôi. Thể thơ tự do chỉ là một phần nhỏ trong phong trào của thơ mới. Trước hết, phong trào thơ mới chính là một cuộc thí nghiệm táo bạo để có thể định lại những giá trị của khuôn phép xưa”.

Trong cuộc thí nghiệm này “trong trào thơ mới đã bỏ đi được rất nhiều khuôn phép trong thơ ca cũ nhưng cũng từ đó mà có nhiều khuôn phép càng trở nên bền vững hơn… những khuôn phép mới xuất hiện trong trào thơ mới có một số bị tiêu trầm như: thơ mười hai chữ, thơ mười chữ, thơ tự do hoặc khuôn phép sắp tiêu trầm như cách gieo vần theo thể thơ của Pháp”.

Thông qua những cuộc thí nghiệm dựa trên sự vận dụng sáng tạo các thể thơ truyền thống của các nhà thơ mới, các tác giả trong nền thơ ca của Việt Nam cũng đã đưa ra được kết quả để chứng minh cho những nhận định của mình.

phong trào thơ mới

Đến năm 1971, Hà Minh Đức đã thống kê lại 168 bài thơ của 45 nhà thơ mới được tổng hợp lại trong tập Thi nhân Việt Nam bởi Hoài Thanh, Hoài Chân và đưa ra được một kết luận: “Nhìn chung tất cả những thể thơ 8 từ, 7 từ, 5 từ, lục bát là những thể thơ được sử dụng phổ biến nhất trong phong trào thơ mới”.

Qua những những kết luận về thể thơ được sử dụng phổ biến trong phong trào thơ mới của Hà Minh Đức chúng ta có thể thấy được những nhận xét ban đầu của Hoài Thanh, Hoài Chân là rất xác đáng và có giá trị.

Đi tìm câu trả lời chính xác nhất về khái niệm của thơ mới, các  tác giả “Thi nhân Việt Nam” chỉ dừng lại ở việc sử dụng chữ “Tôi” và đưa ra nhận xét rằng đó là điều quan trọng, là tinh thần của thơ mới.

Quan niệm như vậy về thơ mới là rất có chừng mực và đúng đắn, tiến gần được với thực chất của vấn đề. Ý kiến của các nhà thơ mới như: Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan cũng xoay quanh ý kiến của Hoài Thanh, Hoài Chân.

Quan niệm về thơ mới khi so sánh với thơ cách mạng

Bên cạnh những quan niệm về thơ mới được đưa ra bằng cách so sánh với thơ cũ như đã nêu ra ở trên, một quan niệm về thơ mới được đưa ra bằng cách so sánh với thơ cách mạng cũng rất đáng để chú ý tới. Ví dụ như: “Thơ mới ở đây chính là một trong trào thơ ca theo trường phái lãng mạn 1932 – 1945 màn quan điểm nghệ thuật vì nghệ thuật và tư tưởng của hệ tư sản” – (Phan Cự Đệ 1997:22); “ Phong trào thơ mới cũng giống như khuynh hướng lãng mạn nói chung là sự biểu hiện của cá nhân tư sản” – (nhóm Lê Quý Đôn 1957:290); “Thơ mới ở trong thời kỳ này thể hiện sự không bằng lòng với cuộc sống đang xảy ra trước mắt và nó còn hướng người đọc vào những con đường bế tắc” – (Viện Văn học, 1964:79).

Những quan điểm này rõ ràng là đã đánh giá quá thấp, phê phán rất nặng nề về nội dung tư tưởng cũng như tác dụng của phong trào thơ mới dù học có vạch ra được một ranh giới giữa thơ cách mạng và kháng chiến trước và sau năm 1945 với phong trào thơ mới.

Hiện nay, thơ mới được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học đánh giá cao, họ gần như muốn đánh đồng thơ mới cùng với thơ ca Việt Nam hiện đại.

Phải nói, đầu thế kỷ 20 phong trào thơ mới là một hiện tượng của văn học có giá trị rất lớn. Phạm vi lịch sử cụ thể của phong trào thơ mới chính là từ năm 1930 đến năm 1945, thời gian trước đó nó chỉ là mầm mống và có rất nhiều thể loại thơ khác không thuộc phong trào thơ mới và từ sau năm 1945 thì lại càng không phải là thơ mới. Trong thời gian này, phong trào thơ mới đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn chế.

Chính vì thế, thơ mới đã có một vị thế riêng và bộ mặt riêng nhưng chỉ là một bộ phận chứ không phải là thơ ca hiện đại và cần được đánh giá một cách xứng đáng.

Written by ngoc anh · Categorized: Thơ Ca

Th11 27 2018

Thơ đường luật là gì? Luật được sử dụng trong thơ đường luật là gì?

Cần phải hiểu rõ thơ đường luật là gì và các luật được sử dụng để có thể hiểu hơn về thể loại thơ này hoặc làm ra những tác phẩm để đời.

Thơ đường luật

Thơ đường luật là gì?

Thơ đường luật hay còn được gọi với cái tên là thơ luật đường. Đây là một thể thơ đường với các luật được xuất hiện từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ đường phát triển rất mạnh mẽ không chỉ trên chính quê hương của nó mà còn nổi tiếng ở một số đất nước lân cận với tư cách là thể loại thơ tiêu biểu nhất của nhà Đường nói riêng và tinh hoa của thi ca Trung Hoa nói chung.

Người ta còn gọi thơ Đường luật là thơ cận thể để đối lập và phân biệt với thể loại thơ cổ thể được sáng tác không tuân theo các luật ấy.

Thơ Đường luật có một hệ thống các quy tắc rất phức tạp, những quy tắc này được thể hiện ở 5 điều sau: Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục.

Xét về hình thức thì thơ đường luật được chia thành các dạng như;

  • Thất ngôn bát cú: tám câu, mỗi câu sẽ có 7 chữ. Đây được xem là dạng phổ biến nhất của thể thơ Đường luật.
  • Thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ
  • Ngũ ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu 5 chữ
  • Ngũ ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 5 chữ

Ngoài những dạng được kể trên thì còn rất nhiều dạng không phổ biến khác. Người Việt Nam khi làm thơ đường luật cũng hoàn toàn tuân theo những nguyên tắc này.

Tìm hiểu về thơ đường luật tại một số quốc gia

Việt Nam

Bởi vì văn chương chính thống, hệ thống giáo dục và khoa cử tại Việt Nam thời kỳ trung đại đều sử dụng tiếng Hán nên người Việt cũng sử dụng tiếng Hán và các thể loại thơ của người Trung Hoa để sáng tác thơ văn trong đó có cả thơ đường Luật.

Người đầu tiên đưa tiếng Việt vào trong thơ văn của Việt Nam chính là Nguyễn Thuyên, ông đã đặt ra thể thơ Hàn luật. Đây là một thể thơ kết hợp giữa thơ Đường luật cùng với các thể loại thơ của dân tộc Việt.

Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Sau khi phong trào thơ mới xuất hiện thì số người sử dụng luật thi đã bị giảm đáng kể.

Nhật Bản

Vào khoảng thế kỷ thứ 5, chữ Hán đã bắt đầu du nhập vào Nhật Bản. Khi thái tử Shotoku (Thánh Đức) bắt đầu nhiếp chính vào năm 593 đã ban hành một hiến pháp “Thập thất điều” và gửi rất nhiều phái đoàn sang nhà Đường để du học.

Năm 710, Nữ hoàng Genmei đã rời đô về Nara và đặt tên là Heijo-kyo (Bình Thành Kinh). Năm 794 Thiên hoàng Kammu rời đô về Heian và thành lập kinh đô (Heian-kyo, Bình An Kinh). Đây chính là thời kỳ Nhật Bản mô phỏng thời nhà Đường của Trung Hoa từ kiến trúc đô thành, văn hóa, nghi thức đến cả văn học. Thời kỳ này kéo dài ít nhất đến khi Nhật Bản ngừng cử những phái đoàn sang giao lưu và học tập với đại lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học cửa công và đồng nghĩa với các sinh hoạt cung đình.

Thành tựu đáng chú ý nhất mà người Nhật Bản đạt được với thể loại thơ Đường luật chính là Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Tập thơ này gồm có 120 bài thơ được sáng tác bằng chữ Hán của rất nhiều nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế  và các thành viên quý tộc, hoàng tộc cho đến những tăng lữ đến từ Trung Hoa nhập quốc tịch vào Nhật Bản. Các sáng tác đa phần được thực hiện trong khoảng thế kỷ thứ 7 và 8, thể thơ được sử dụng chủ yếu trong tập thơ này chính là bát cú, tứ tuyệt, ngũ ngôn.

Thơ đường luật

Luật

Đối âm (luật bằng trắc)

Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng.

Những bài có luật bằng là bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên nếu chữ thứ 2 trong câu đầu tiên mà sử dụng thanh sắc thì được gọi là luật trắc. Chữ thứ 2 và chữ thứ 6 trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu và đồng thời chữ thứ 4 không được có thanh điệu giống với 2 chữ kia.

Ví dụ nếu chữ thứ 2 và thứ 6 đã sử dụng thanh trắc thì chữ thứ 4 bắt buộc phải sử dụng thanh bằng hoặc ngược lại. Nếu một câu thơ trong bài thơ đường luật không sử dụng quy tắc này sẽ được gọi là “thất luật”.

Đối ý

Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại đường luật chính là ý nghĩa của câu thứ 3, thứ 4 phải đối nhau và cả 2 câu thứ 5, thứ 6 cũng phải đối nhau.

Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh đội đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới…

Nếu trong một bài thơ đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau hoặc những câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi “thất đối”.

Một số dạng thơ đường luật

Thất ngôn bát cú

Thơ thất ngôn bát cú chính là một thể loại thơ cổ xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, đến thời Đường đã được các nhà thơ đặt lại quy tắc rõ ràng, cụ thể hơn và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ đó. Đặc điểm của thể loại thơ này chính là mỗi bài thơ sẽ có 8 câu và mỗi câu có 7 chữ, đồng thời tuân theo một quy tắc rất chặt chẽ.

Thất ngôn tứ tuyệt

Thực chất chính là một bài “thất ngôn bát cú” nhưng đem bỏ đi 4 câu đầu hoặc 4 câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần… vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này sẽ trở thành một bài thơ “4 câu 3 vần” mà Nguyễn Du đã sử dụng để viết truyện Kiều.

Ngũ ngôn tứ tuyệt

Thực chất chính là một bài thất ngôn tứ tuyệt nhưng đem bỏ đi 2 chữ đầu ở mỗi câu; các chữ và luật sử dụng còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.

Ngũ ngôn bát cú

Cũng là biến thể từ bài thất ngôn bát cú nhưng bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu mà thành, vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.

Khi làm thơ Đường Luật thì chúng ta phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không tuân theo đúng quy tắc thì dù nội dung bài thơ của bạn có hay đến mấy đi nữa thì cũng không được chấp nhận.

vanhocquenha.vn – Văn Chương

Written by ngoc anh · Categorized: Thơ Ca

Copyright © 2023 · Log in